Chú thích Sương Nguyệt Anh

  1. Ghi theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 2, Nhà xuất bản. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1980, tr. 28) và Mai Huỳnh Hoa (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1576). Bia mộ ghi bà "mất ngày 12 tháng 2 năm Tân Dậu (1922), hưởng thọ 58 tuổi". Chưa rõ vì sao có sự khác biệt này.
  2. "Nguyễn chi thế phổ" do Nguyễn Đình Chiểu biên soạn, Nguyễn Đình Huy (cha ông Chiểu) hiệu chính.
  3. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 28.
  4. Theo tục lệ ở Nam Bộ, con đầu lòng kể thứ hai, nên mặc dù Sương Nguyệt Anh là con gái thứ năm trong gia đình, nhưng được gọi là thứ năm.
  5. Có sách ghi tên Trình. Ở đây ghi theo Nguyễn Liên Phong vì ông là người sống cùng thời với Sương Nguyệt Anh. Ngoài ra, ông còn cho biết thêm chi tiết: "Con gái ông Đồ Chiểu hình trạng nho nhã ốm yếu, tính nết điềm tịnh hiền lành. Thuở nhỏ cô lấy chồng, tên là thầy phó Tính, về ở theo quê chồng tại chợ Rạch Miễu" (Điếu cổ hạ kim thi tập xuất bản 1915).
  6. Toà soạn đặt tại số nhà 15 đường Taberd (nay là đường Nguyễn Du, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Chủ nhiệm là ông Henri Blanquière. Tờ báo phát hành định kỳ hàng tuần với các chuyên mục: xã thuyết, văn nghệ, gia chánh, học nghề, cùng các trang lời hay ý đẹp và mẹ con nói chuyện. Có thể nói, "Nữ giới chung" là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam thời đó chú trọng đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán những luật lệ khắt khe đối với nữ giới.,
  7. Theo Nguyễn Ngọc Hiền, Nữ sĩ Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2005, tr.478.
  8. Cô Vinh lấy chồng là ông Mai Bạch Ngọc (hay Mai Văn Ngọc), sinh một cô con gái đặt tên Mai Huỳnh Hoa nhũ danh Kim Ba, sau này kết duyên với nhà hoạt động chính trị Phan Văn Hùm (1902-1946), tác giả Ngồi tù khám lớn (1929)
  9. Ngày mất ghi theo bia mộ. Nhưng theo Mai Huỳnh Hoa thì bà mất tại Ba Tri ngày 2 tháng Chạp năm Canh Thân tức 20 tháng 1 năm 1921 (Từ điển Văn học, tập 2. Nhà xuất bản KHXH, tr. 320).
  10. Dẫn theo GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ danh nhân tự điển, Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1966, tr. 1161